XỬ LÝ BỤI XI MĂNG BẰNG HT LỌC BỤI TÚI VẢI

XỬ LÝ BỤI XI MĂNG BẰNG HT LỌC BỤI TÚI VẢI XỬ LÝ BỤI XI MĂNG BẰNG HT LỌC BỤI TÚI VẢI

I. TỔNG QUAN

Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển về cơ sở hạ tầng nên nhu cầu về vật liệu xây dựng là rất lớn. Chính vì vậy, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng luôn là nghành được đầu tư, ưu tiên phát triển trước. Và trên thực tế ở nước ta, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước, mạnh nhất là từ khi thống nhất đất nước (1975) đến nay.

9 10 3334

I. TỔNG QUAN

Kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển về cơ sở hạ tầng nên nhu cầu về vật liệu xây dựng là rất lớn. Chính vì vậy, ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng luôn là nghành được đầu tư, ưu tiên phát triển trước. Và trên thực tế ở nước ta, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng luôn gắn liền với sự phát triển của đất nước, mạnh nhất là từ khi thống nhất đất nước (1975) đến nay.

Từ sau đại hôị Đảng lần thứ 6 (1986), quan điểm của Đảng và nhà nước ta là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mục tiêu cơ bản là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về mặt vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế. Chính sách này tạo điều kiện để nhiều nghành kinh tế phát triển, điều đó đòi hỏi cơ sở hạ tầng phải được đầu tư rất lớn. Chính vì vậy, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có vai trò quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được về mặt kinh tế  thì những hệ lụy về môi trường, đến sức khỏe con người do tác động của quá trình sản xuất vật liệu xây dựng đang là những thách thức lớn đối với nước ta.

Là một bộ phận quan trọng của nghành sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp sản xuất xi măng đã phát triển từ rất sớm và ngày càng được đầu tư công nghệ hiện đại để nhằm nâng cao năng lực sản xuất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nhằm đáp ứng cho nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, ở một số vùng hiện nay, việc sản xuất xi măng vẫn còn áp dụng công nghệ lò đứng (là công nghệ đã cũ và lạc hậu), một công nghệ phát thải khói bụi trực tiếp ra không khí mà không qua xử lý, gây ô nhiễm môi trường sống tại vùng đồng thời, để lại những hậu quả tiêu cực cho sức khỏe của con người và xã hội.

II. XỬ LÝ BỤI XI MĂNG BẰNG HT LỌC BỤI TÚI VẢI

Nguyên lý lọc bụi của vải trong xử lý khí thải như sau: Cho không khí lẫn bụi đi qua túi  lọc, ban đầu các hạt bụi lớn hơn khe giữa các sợi vải sẽ bị giữ lại trên bề mặt vải theo nguyên lý rây, các hạt nhỏ hơn bám dính trên bề mặt sợi vải lọc do va chạm, lực hấp dẫn và lực hút tĩnh điện, dần dần lớp bụi thu được dày lên tạo thành lớp màng trợ lọc, lớp màng này giữ được cả các hạt bụi có kích thước rất nhỏ.

Hiệu quả lọc đạt tới 99,8% và lọc được cả các hạt rất nhỏ là nhờ có lớp trợ lọc. Sau 1 khoảng thời gian lớp bụi sẽ rất dày làm sức cản của màng lọc quá lớn, ta phải ngưng cho khí thải đi qua và tiến hành loại bỏ lớp bụi bám trên mặt vải. Thao tác này được gọi là hoàn nguyên khả năng lọc.

Vải lọc để may túi lọc bụi có thể là vải dệt hay vải không dệt, hay hỗn hợp cả 2 loại, vài thường và vải chịu nhiệt, với vải chịu nhiệt may thành túi thì gọi là túi lọc bụi chịu nhiệt.

Vải lọc thường được may thành túi lọc hình tròn đường kính D=125~250 mm hay lớn hơn và có chiều dài 1,5 đến 2 m. Cũng có khi may thành hình hộp chữ nhật có chiều rộng b=20~60mm; Dài l=0,6~2m. Trong một thiết bị có thể có hàng chục tới hàng trăm túi lọc.

Với túi lọc bụi tròn – dài, người ta thường may kín một đầu túi, đầu kia để trống. Khi làm việc, đầu để trống được liên kết với cổ dẫn khí lọc vào túi trên mặt sàng phân cách của buồng lọc bụi. Khi cho không khí trước khi lọc đi vào trong túi qua cổ, dòng khí đi xuyên qua túi vải ra khoang khí sạch và thoát ra ngoài. Chiều đi này sẽ làm túi vải tự căng ra thành bề mặt lọc hình trụ tròn. Với sơ đồ này, miệng túi nối với mặt sàng thường được quay xuống phía dưới để tháo bụi ra khỏi túi khi làm sạch mặt vải.

Túi lọc bụi cũng có nhiều loại khác để có thể ứng dụng được trong những môi trường làm việc khác nhau như: Túi lọc bụi chống tĩnh điện, túi lọc bụi chống ẩm, túi lọc bụi PE 500, …

Khi cho không khí đi theo chiều từ bên ngoài vào bên trong túi, trong túi phải có khung căng túi làm từ kim loại để túi không bị xẹp lại khi làm việc. Với sơ đồ này, miệng túi nối với mặt sàng thường được quay lên phía trên.

Việc hoàn nguyên bề mặt lọc có thể tiến hành sau khi ngừng cho không khí đi qua thiết bị và làm sạch bụi trên mặt vải bằng 2 cách:

- Rung rũ bằng cơ khí nhờ một cơ cấu đặc biệt.

- Thổi ngược lại bằng khí nén hay không khí sạch.

Vì có đặc điểm là chu kỳ làm việc gián đoạn xen kẽ với chu kỳ hoàn nguyên nên thiết bị này bao giờ cũng có hai hay nhiều ngăn (hay nhiều block trong cùng 1 ngăn) để có thể ngừng làm việc từng ngăn (hay từng block) mà rũ bụi. Tải trọng không khí của vải lọc thông thường là 150~200 m/h. Trở lực của thiết bị khoảng 120~150 kg/m2. Chu kỳ rũ bụi là 2~3 h.


Trở lại      In      Số lần xem: 2758
Tin tức liên quan

CÔNG TY TNHH SX TM DV 2G

 

Địa chỉ: 155 Ngô Quyền, P.Hiệp Phú, Tp.Thủ Đức, Tp.HCM

Liên hệ:  Mr.Lịch (0944 945 339)        Email : lich.nguyen@thegioiloc.com.vn

Liên hệ:  Mr.Luân (0931 067 020)        Email : sales01.2g@gmail.com

Thông báo bộ công thương

Thiết kế bởi www.webso.vn